Thứ Bảy, 26 tháng 10, 2013

GÀ TRE TÂN CHÂU

BẢN TIÊU CHUẨN GIỐNG GÀ TRE KIỂNG TÂN CHÂU

MÔ TẢ CHUNG
 Là một giống gà tre nhỏ, có nguồn gốc từ vùng rừng núi Châu Đốc-An Giang, Việt Nam. Ban đầu được những cư dân mới vùng này nói chung và dân Tân Châu (xưa) nói riêng thuần dưỡng, Tân Châu là địa phương phát triển giống gà kiểng này trước tiên. Sau này được giới chơi gà kiểng Long Xuyên và các địa
phương khác trong tỉnh cùng nuôi dưỡng, nhân giống và phát triển để có được giống gà tre khá thuần chủng hiện nay. Do có nhiều đặc điểm đặc thù so với các giống gà tre khác, vì có khởi nguồn từ vùng Tân Châu nên giới gà kiểng An iang đã đặt thêm địa danh Tân Châu vào để phân biệt với các giống gà tre nhỏ
vùng miền khác. Tân Châu là một vùng đất trù phú, với những nét lịch sử, địa lí, văn hóa đặc thù so với các vùng khác. Từng là một trung tâm kinh tế sầm uất của miền Tây, nhờ đó, bên cạnh các đặc sản khác, con gà tre xứ này được nhiều dân chơi gà kiểng ở địa phương khác của miền Tây và Sài Gòn biết tới. Chính điều đó nên chúng ta thấy gà tre Tân Châu xuất hiện rãi rác nhiều nơi. Tuy nhiên vùng An Giang hiện nay vẫn là địa phương nuôi dưỡng giống gà này nhiều nhất. Nhìn thoáng qua gà tre Tân Châu có dáng hình nhỏ, chân vừa, mạnh khỏe; bộ lông dày mềm mại, bóng; đầu, thân, đuôi thon dài, lông mã dài, tiếng gáy gắt, hơi gáy ngắn. Con trống trưởng thành trọng lượng không quá 900g, con mái không quá 600g Tính năng chủ yếu dùng làm gà kiểng.
1. TÍNH KHÍ Thân thiện với người, con trống có tính phân chia vùng lãnh thổ, nhưng không hung hãn, có tính hiếu chiến khi giáp mặt nhau.
2. ĐẦU Đầu nhỏ gọn, có 2 loại mồng là mồng dâu và mồng trích, mắt sáng lanh lợi, mỏ ngắn, hai tích nhỏ chiều dài tích không quá 1.5cm
3. ĐUÔI Lông đuôi nhiều, phân bố thành nhiều lớp, tối thiểu là 3 lớp, đuôi dài, bản đuôi khá rộng, cong xuống mặt đất (phụng vỹ), hướng đuôi từ phao câu lệch không quá 45 độ so với phương ngang, phần cao nhất của lông đuôi cao không vượt quá đầu.
4. THÂN Thân tương đối ngắn, ngực rộng, thịt hồng hào, hướng từ ức xuống chân dốc tối đa 45 độ so với phương ngang. Cánh có khuynh hướng khuỳnh ra, dài ko quá thân, cánh che ít nhất 2/3 cẳng chân tính từ trên xuống (ở trạng thái bình thường đối với gà trưởng thành).
5. CHÂN Chân hơi vuông, vảy đều đặn, có độ cao vừa, chiều dài cẳng chân ngắn hơn chiều dài xương đùi (tỷ lệ hai xương cẳng chân và xương đùi từ 6:10 – 8:10). Có 4 ngón chân, 3 ngón phía trước dài, và 1 ngón phía sau ngắn tạo thành thế đứng
vững chắc. Chấp nhận tất cả màu chân.
6. LÔNG Mịn màng, bóng, che kín toàn thân, chia làm 3 phần : Lông thân: mịn, dày, ôm sát thân Lông cổ (bờm): dày mềm, mịn, phủ từ ót đến tối thiểu ½ lưng. Lông mã lưng (mã dìm, mã rơi): mềm, mịn, suông, dài gần chạm đất, hoặc chạm tới đất.
7. MÀU SẮC LÔNG Chấp nhận tất cả các màu lông. Thông thường nhất là các màu: chuối, điều, khét,
nhạn.
GHI CHÚ: Bản tiêu chuẩn trên chỉ mô tả con trống. Gà mái Tân Châu ngoài các đặc tính cơ bản của loài gà mái; chân, đầu, mỏ giống gà trống, còn các đặc điểm đặc thù sau: o Lông: màu lông ít đa dạng hơn gà trống, lông mềm mại,  lông mã (“mã dìn”) không phát triển.
o Mồng, Tích gà: kém phát triển. o Đuôi: hơi cong lên (không phụng vỹ), lệch với phương  ngang từ 20-30 độ, ít lớp hơn gà trống, thường 2 lớp đuôi, đuôi ngắn hơn gà trống.
o Thân tròn trĩnh, đường ức tới chân lệch không quá 30 độ so  với phương ngang. Cánh ôm sát thân.
o Khả năng sinh đẻ: mỗi lứa đẻ trung bình từ 8-10 trứng, tự  ấp và nuôi con giỏi

8. KHUYẾT ĐIỂM Phần chung:
 o Lông kém bóng mượt, lông xù không ôm sát thân, lông thô  nhám
o Đuôi cao trên 45 độ so với mặt đất. o Chiều dài cẳng chân ngoài tỷ lệ 6:10 – 8:10 so với xương  đùi.
o Chân có nhiều hơn 4 ngón, cẳng chân quá nhỏ. o Mắt lồi. o Mồng lá. o Vảy không đều đặn, chân xù xì. o Chân có lông.
o Mặt, da thân có màu thâm đen. o Đuôi xòe rộng hơn chiều ngang thân (kể cả cánh). o Chân quá ngắn, cánh chạm đất.
o Mỏ méo.
Đối với gà trống:
o Thân quá ngắn, có khuynh hướng cong hướng lên.
o Mồng lệch, hoặc quá to so với khuôn mặt.
o Cánh ngắn (lông cánh ngắn so với thân).
o Bộ lông trên thân ít, lông cổ ít , lông mã và lông đuôi quá  ngắn.
Đối với gà mái:
o Con mái đẻ không đều (hơn 3 ngày 1 trứng), ấp và nuôi con không tốt.
 o Thân thon dài, hông hẹp (eo thắt).
  Bảng Điểm Giống Gà Tre Tân Châu: Tổng Cộng Điểm Có Thể Nhận
Được Là 100
1.      Giống :                      15 điểm
2.      Tính khí :                  5 điểm
3.      Đuôi :                         20 điểm
4.      Cánh :                        10 điểm
5.      Bộ lông tổng cộng là : 25 điểm bao gồm :
Lông cổ (bờm):       10 điểm (*)
o   Lông mã                   10 điểm (*)
o Lông thân                   5 điểm
 6.      Chân :                           5 điểm
7.      Đầu, mào, tích :        10 điểm
8.      Hình thể tổng quát :  10 điểm 
DIỄN GIẢI :
1.      Giống: những con gà vượt qua được vòng sơ loại ( kiểm tra khi  đăng ký), là bước đầu xác định đúng là giống gà kiểng Tân Châu là mặc nhiên được 15 điểm (đây là điểm số cố định)
2.      Tính khí : là mức độ thân thiện, độ thuần của con gà , sự điềm  tĩnh ( không quá nhát , cũng không quá hung hăng); gà Tân Châu là 1 giống gà kiểng nên những đặc tính trên cũng được xem trọng do đó điểm số tối đa  là : 5 điểm
 3.      Bộ Đuôi: bộ đuôi của  giống gà Tân Châu có thể xem là đặc  trưng rõ rệt nhất so với các giống gà tre Việt Nam khác, nên điểm số dành cho nó là  cao nhất :  20 điểm
 4.      Bộ lông: bao gồm lông thân, lông mã, lông cổ ( tỷ lệ lông cổ và  lông mã là 1:1). Bộ lông nói chung thể hiện sắc đẹp, sự hài hòa, tươi sáng, quyến rũ cho con gà , và thông qua bộ lông chúng ta có thể biết được sức khỏe , công phu chăm sóc của chủ gà ..v..v.., và lông mã,  lông cổ của gà Tân Châu cũng là nét rất đặc trưng tạo cho giống gà này 1 vẻ đẹp khó có giống gà Việt Nam nào  sánh bằng, nên điểm số là khá cao: lông mã 10 điểm , lông cổ 10 điểm, lông thân 5 điểm
 5.      Cánh,  với Chân:   tạo cho gà vẻ đẹp hùng dũng, nên bộ cánh có  điểm số tối đa mà 1 con gà có thể đạt được là  10 điểm , và chân là 5 điểm
6.      Đầu , Mồng , Tích : là những bộ phận phụ nhưng nó góp phần  tạo cho con gà sự cân đối về hình thể và tạo cho con gà có cái “thần”, cái "duyên"  riêng nên điểm số tối đa mà 1 con gà có thể đạt được là : 10 điểm
7.      Hình thể tổng quát : là cách nhìn tổng thề 1 con gà, sự phối hợp  màu sắc và của các bộ phận trên cơ thể chúng, màu sắc lông tươi sáng, dáng đi đẹp, tiếng gáy hay,... : điểm số tối đa của 1 con gà có thể có được ở phần này là : 10 điểm
Lưu ý     :
Điểm ở mỗi đặc điểm là điểm tối đa mà 1 con gà có thể nhận được.     
 - (*) : Lông cổ và lông mã được tính tỷ lệ là 1:1
Để có một vẻ đẹp hài hòa thì song song 1 bộ mã dài, dầy,  thì lông cổ phải nhiều tương ứng. Tuy giống gà Tân Châu có vẻ đẹp đặc trưng nổi bật nhất là bộ mã (bao gồm lông cổ) và bộ đuôi, nhưng trong bản điểm này điểm số cho bộ mã không cao như điểm số dành cho bộ đuôi là: theo nghiên cứu của chúng tôi để có bộ mã (và bộ lông cổ) đẹp không khó, và không cần tốn nhiều công sức chăm sóc, với một chế độ nuôi bình thường, thì bộ mã (và lông cổ) có thể phát triển khá đẹp, còn bộ đuôi thì ngược lại: để có 1 bộ đuôi đẹp ngoài yếu tố "bổn" gà thì yếu tố chăm sóc, chuồng trại ..v..v... là rất quan trọng. Người chủ gà phải là tốn nhiều công phu chăm sóc, và nuôi dưỡng, chuồng trại phải được thiết kế phù hợp.

Bảng điểm này được viết bởi : Đỗ Thanh Cao và Nguyễn Tuấn Huy Bản quyền thuộc CLB bảo tồn giống gà tre Tân Châu (An Giang) và Diễn Đàn Gà Tre Việt Nam

Thứ Sáu, 25 tháng 10, 2013

Serama - giống gà tre tí hon


ga serama ga serama dep ga serama 2011 ga serama class a ga serama class a 2011 ga tan chau ga serama 2012 ga serama 2013 ga serama thu duc
ga serama

Serama là giống gà tre nhỏ nhất thế giới mà người ta có thể nuôi trong các căn hộ ở nội thành. Một cặp gà chỉ cần không gian cỡ lồng nuôi mèo.

Lịch sử
Serama là giống gà tre nhỏ và nhẹ nhất trên thế giới, và thường được mô tả như là một công trình nghệ thuật sống.Tổ tiên trực tiếp của giống gà là không xác định và có nhiều tuyên bố cũng như truyền thuyết xung quanh nguồn gốc của giống gà serama. Một số tuyên bố còn đẩy xa đến thế kỷ 17 và thời vua Thái SriRama, mặc dù không có tài liệu nào chứng minh cho điều này.Giống gà serama hiện đại được cho là kết quả của nhiều năm lai tạo bởi Wee Yean Een ở bang Kelantan, Malaysia, người say mê nuôi gà từ thời niên thiếu.
Vào năm 1971, Wee Yean Een kiếm được vài con ayam kapans nặng khoảng 650 g. Tuy nhiên chúng không theo bất kỳ tiêu chuẩn về gà tre nào. Ban đầu, Wee Yean Een dự định lai xa kapans với gà ác để tạo ra những con gà ác nhỏ như kapans. Thật ngạc nhiên, ông chỉ thu được toàn kiểu lông bình thường ở bầy lai đầu tiên. Vì bầy đầu có khung xương nhỏ như mong muốn và cấu trúc cơ thể như gà ác, Wee quyết định tiếp tục và cố gắng loại bỏ những đặc điểm không mong muốn ở gà ác. Chẳng hạn, chân có lông và năm ngón. Mặc dù ông không thể loại bỏ được những đặc điểm này một cách hoàn toàn bởi vì thỉnh thoảng những trường hợp lại tổ chẳng hạn như lông mịn hay chân có lông hãy còn xuất hiện cho đến tận ngày nay.
Vào năm 1985, Wee Yean Een lai với gà tre nhật để lấy màu và kiểu đuôi dựng đứng. Kế hoạch của ông là tạo ra giống gà tre ngực nở với dáng vẻ tự tin và vương giả. Cùng với đôi cánh thẳng đứng gần hay hầu như chạm đất và một thân hình gọn gàng.Sau khi thành công trong việc lai xa với gà tre nhật, ông lai cận huyết để củng cố những đặc điểm này. Thật ngạc nhiên, bầy con có kích thước còn nhỏ hơn nữa vì vậy ông tiếp tục chương trình lai tạo.
Vào năm 1988, giống gà trở nên thuần và cân nặng dưới 500 g. Wee Yean Een quyết định đặt tên cho giống gà là serama theo tên của Raja Sri Rama, một nhân vật huyền thoại từ kịch rối bóng mà Wee Yean Een yêu thích khi còn bé. Wee Yean Een cho rằng Raja Sri Rama, người nổi tiếng với vẻ đẹp, sự sang trọng và vương giả là hình tượng lý tưởng cho giống gà serama. Để phổ biến giống gà và kiếm kinh phí duy trì chương trình lai tạo của mình, Wee Yean Een bắt đầu bán ra số gà dư.
Vào năm 1990, khi số lượng gà lưu hành bên ngoài đủ nhiều, triển lãm gà serama đầu tiên được tổ chức ở quận Bukit Batu Pahat thuộc bang miền bắc Perlis, Malaysia. Nó được kết hợp cùng với một sự kiện của bang bao gồm thi chim hót và đá gà.

Ngày nay, vì Wee Yean Een được hầu hết mọi người công nhận là nhà sáng lập, chuyên gia và người tiên phong lai tạo giống gà, ông hiển nhiên được chọn làm trọng tài. Kể từ lần triển lãm đầu tiên, sự phổ biến của giống gà ngày càng tăng khiến serama trở thành thú cưng phổ biến nhất ở Malaysia. Ngày nay, gà serama thậm chí còn lấn lướt cả chó và mèo trong vai trò thú cưng. Ở Malaysia, không có gì bất thường khi một tuần có đến ba hoặc bốn triển lãm, các triển lãm cũng được tổ chức ở Thái Lan và Singapore.

Ở Malaysia và những quốc gia châu Á khác, sự phổ biến của serama hầu như là vì vẻ đẹp và kích thước tí hon của chúng, điều khiến người ta có thể nuôi gà thậm chí cả trong nội thành.

Việc lai tạo vẫn đang tiếp diễn để hoàn thiện hơn nữa giống gà và cải thiện kích thước, tính cách, hình dáng và vẻ đẹp tổng thể của chúng. Việc giảm kích thước gà serama vẫn đang tiếp diễn với một số cá thể gà trống đạt 185 g và gà mái đạt 155 g.

Tính cách thân thiện và dạn người là một trong những đặc điểm chính khiến serama trở thành vật cưng ở khắp nơi trên thế giới.

Phân loại
Serama Malaysia
Ở Malaysia, giống gà này được gọi là ayam serama. Có hàng loạt biến thể và dạng khác nhau liên quan đến giống gà. Một số trong đó bao gồm thon (slim), táo (apple), tròn (ball) và rồng (dragon). Mỗi dạng đều có hình dáng khác nhau. Xin lưu ý rằng, hiện ở Malaysia cũng chưa có chuẩn cho các dạng gà serama này.

Sau đây là mô tả sơ lược về mỗi dạng gà: dạng thon tương đối cao, mảnh dẻ với ức nhỏ. Dạng này trông như thể có thể đặt vừa vào hình ống mà không có vấn đề gì. Dạng tròn có bề ngoài rất tròn trĩnh. Chân ngắn và cánh không thẳng đứng mà nghiêng một góc 45 độ hay hơn kém một chút tùy vào độ dài của cánh và chân. Ức nở tương tự như hình dáng loài chim. Dạng táo không rõ ràng lắm. Ức gà serama dạng táo hơi thấp và nở hơn một chút và chân dạng này có kích thước trung bình. Dạng rồng là dạng serama “cực đỉnh”. Đầu nằm xa về phía sau để mà, ở một số cá thể, ức thực sự cao vượt mặt. Cánh được giữ thẳng đứng, và chân có độ dài từ trung bình đến ngắn.Gà serama dạng "rồng" có ức nhô hẳn ra phía trước, cao vượt mặt, chân thấp và cánh thẳng đứng.

Serama Mỹ
Gà serama được J. Schexnayder nhập khẩu vào Mỹ từ năm 2001 và thời đó được gọi là serama Malaysia dựa vào nguồn gốc xuất xứ của chúng. Bởi đây là đợt nhập khẩu gà serama lớn nhất nên hầu hết các hậu duệ ngày nay ở Mỹ đều bắt nguồn từ số gà này. Cũng có một vài đợt nhập khẩu khác nhưng số lượng gà rất ít.

Người Mỹ đã phát triển một dạng serama mới từ số gà nhập khẩu bao gồm nhiều dạng khác nhau. Bởi số lượng gà nhập khẩu là quá nhỏ để lai theo từng dạng riêng – được biết ở Malaysia có đến 9 dạng khác nhau. Tất cả gà serama, chủ yếu gồm hai dạng phổ biến nhất là “táo” và “thon”, được kết hợp với nhau để tạo ra một dạng mới.

Vào năm 2002, Hội đồng serama Bắc Mỹ (SCNA) xây dựng tiêu chuẩn cho giống gà này. Đó là khi thuật ngữ gà “serama Mỹ” xuất hiện. Gà serama Mỹ không chỉ là những con xuất xứ từ Mỹ, mà là những con serama theo kiểu Mỹ. Những người sáng lập hội đồng viết bản tiêu chuẩn dựa trên sự kết hợp của hai dạng gà là thon và táo. Bởi vì những thuật ngữ phát sinh chẳng hạn serama thon-táo sẽ gây nhiều hiểu lầm nên hội đồng đặt tên là serama Mỹ, tức dạng serama được phát triển ở Mỹ. Việc chọn ra một dạng và gắn bó với nó là điều cần thiết vì gà serama ở Malaysia phân hóa rất mạnh, điều có thể thấy thông qua sự tồn tại của hàng loạt dạng gà ở đó.

Bởi vì thuật ngữ serama Mỹ ra đời, hiện nay ở Mỹ cũng có cả dạng gà được gọi là “serama Malaysia”. Điều này gây ra một số nhầm lẫn nhất định bởi vì một số nhà lai tạo hiểu serama Malaysia như là “serama kiểu Malaysia” thay vì “serama xuất xứ từ Malaysia”. Họ gọi gà của mình là serama Malaysia nhưng thực ra đó là một biến thể từ dạng serama Mỹ với đặc điểm chân ngắn hơn và cánh dài hơn; chẳng qua là sự kết hợp rõ nét hơn giữa dạng thon và dạng táo. Vào thời điểm này, gà serama ở Mỹ đang trong giai đoạn phát triển sơ khai nên có một số khó khăn trong việc phân biệt giữa serama Mỹ với “serama Malaysia”. Sau khoảng 5 năm nữa, điều này sẽ thay đổi và những dạng gà sẽ phân hóa một cách rõ rệt. Hiện tại, đa số mọi người đều hiểu serama Malaysia như là serama xuất xứ từ Malaysia.

Đợt nhập khẩu chính từ Malaysia vào Anh được thực hiện vào năm 2004. Gà serama cũng được nhập khẩu từ Mỹ. Do đó ở Anh có cả serama Mỹ lẫn serama Malaysia.

Tiêu chuẩn serama Mỹ
Chuẩn SCNA công nhận các lớp A, B và C, chuẩn những nơi khác chỉ đơn giản công nhận lớp A và B. Lý do SCNA công nhận 3 lớp (mặc dù hầu như chỉ có gà lớp B và C) là vì họ không muốn tạo ra rào cản cho chính mình vào thời điểm này.

Lớp A – gà trống trưởng thành dưới 350 g, gà mái trưởng thành dưới 325 g
Lớp B – gà trống trưởng thành dưới 500 g, gà mái trưởng thành dưới 425 g
Lớp C – gà trống trưởng thành dưới 600 g, gà mái trưởng thành dưới 525 g

Lớp duy nhất cho gà trống tơ - dưới 500 g
Lớp duy nhất cho gà mái tơ - dưới 425 g

Thang điểm
Kiểu - 30 điểm
Tính cách - 25 điểm
Đuôi - 15 điểm
Cánh - 10 điểm
Lông - 10 điểm
Điều kiện - 10 điểm

Tổng số điểm = 100

 Gà trống

Mồng: lá, kích thước trung bình, nằm vững chãi và cân bằng trên đầu, mồng dựng và thẳng, gai mồng phân bố đều với 5 gai, viền ngoài và giữa lá mồng có cùng kích thước, cong vừa phải, lá mồng kéo dài vừa đủ về phía sau đầu.

Mỏ: mạnh mẽ, to và hơi cong.

Mặt: nhỏ, tròn, láng và nhuyễn, không nhăn nhúm hay có nếp gấp.

Mắt: tròn, lanh lợi.

Tích: trung bình, tròn, láng và nhuyễn, không nhăn nhúm hay có nếp gấp.

Tai: nhỏ, hình ô-van, sát vào da đầu.

Đầu: nhỏ, ngả về sau kiêu hãnh.

Cổ: dài trung bình, cong về phía sau phô bày ức, đầy đặn và duyên dáng từ đầu xuống đến vai.

Lông cổ: dày, đổ tự nhiên từ trước ra sau, phủ lên hai vai.

Lưng: cực ngắn, rộng, hình dạng như chữ V với cổ và lưng là hai vách.

Lông mã: hơi cong, đầu nhọn như mũi kim phủ lưng và hai bên hông, lan rộng, chồng lên đuôi và các lông phụng tá (lesser sickle).

Đuôi: kích thước vừa phải và dựng đứng để gần như chạm gáy.
Lông đuôi: xòe vừa phải và xếp chồng lên nhau gọn gàng, dựng lên sau đầu, nhìn ngang có hình chữ A.
Lông phụng chủ: trung bình cho đến dài, cứng, chắc, hình lưỡi kiếm bản rộng hơi cong.
Lông phụng tá: xòe đều, kích thước trung bình, dựng đứng, hình lưỡi kiếm lẫn trong đám lông tơ.
Lông tơ (covert): nhiều, phủ đầy, lan đều đến đuôi.

Cánh: rộng, dài, khép chặt, thẳng đứng nhưng không chạm đất; vai và chính diện: nhô, lông cổ hơi phủ lên
Cánh vai (bow): tròn trĩnh.
Lông phủ (wing covert): bản rộng, tạo thành hai hàng cắt ngang cánh.
Lông sơ (primary): bản vừa phải, khá dài, bị lông thứ che hoàn toàn.
Lông thứ (secondary): bản rộng, thon dần về cuối, viền cánh (wing bay) lộ rõ.

Ức: cao, to, đầy đặn, nhô hẳn ra phía trước so với mỏ, liền lạc từ đầu, cổ cho đến ức – hình chữ S.

Thân và phần hậu: thân ngắn và rộng, ngả từ trước ra sau; phần hậu ngắn và đầy đặn.

Chân: chiều dài trung bình, xoãi rộng, song song với nhau và không vòng kiềng (bowing) hoặc chụm khuỷu (knock-knee), tỷ lệ phù hợp.
Đùi: ngắn, to ở trên và thon dần xuống khuỷu.
Cẳng: ngắn, tròn, trơn láng, vảy đều.
Ngón: bốn ngón, thẳng, xòe đều, vẩy đều.
Hình dáng: nhỏ, rộng, gọn, nhanh nhẹn, thon, dáng vương giả.

Gà mái
Tương tự như gà trống, nhưng mồng và tích nhỏ (thay vì trung bình), mã lại: ngắn, to bản và dày, lông đuôi bản rộng (không có các lông phụng).

Đánh giá
Gà serama được chấm điểm trên bàn trọng tài. Từng con đứng trên bàn trước mặt một hay nhiều trọng tài. Đây là điểm khác biệt giữa serama với các giống gà khác khi tất cả đều được chấm trong lồng. Do đó gà serama không những phải đạt chuẩn về hình dáng mà còn phải có tính cách phù hợp và dễ thích nghi.

 Cân gà - Đánh giá - Đánh giá lông trước mặt chủ gà.

KÍCH CỠ (SIZE)
Không được vượt quá trọng lượng của mỗi lớp mà nó tham gia. Khi tham gia vào một lớp, gà sẽ được cân và nếu trọng lượng vượt quá mức cho phép thì gà sẽ được chuyển sang lớp phù hợp với nó.

ĐIỂM SỐ
Điểm số thể hiện mức độ phù hợp của cá thể đối với đa số những đặc điểm chính của bộ tiêu chuẩn. Khác với những giống gà khác, kiểu, tính cách và đuôi là những đặc điểm quan trọng nhất.

TÍNH CÁCH VÀ KIỂU
Đây là những đặc điểm quan trọng nhất đối với bất kỳ một con serama nào tham gia triển lãm. Chúng làm nên sự khác biệt giữa serama với các giống gà khác. Hai đặc điểm này chiếm tỷ lệ cao nhất trong thang điểm, do đó chúng nhất định phải được lưu tâm đặc biệt.

1) TÍNH CÁCH (TEMPERAMENT)
Tính cách là điều quan trọng nhất ở gà serama. Tính cách dựa trên cả hai yếu tố: tự nhiên và thuần dưỡng. Việc tuyển chọn tính cách thân thiện và hiền lành phải được thực hiện ráo riết trong trại lai tạo để gia tăng đặc điểm quan trọng này ở bầy gà giống sau mỗi thế hệ, vì di truyền đóng một vai trò rất quan trọng với đặc điểm tính cách. Đây là yếu tố tự nhiên. Hơn nữa, gà serama non phải được đem dự triển lãm để chúng dạn người và đám đông. Gà non phải được huấn luyện và chuẩn bị cho triển lãm càng sớm càng tốt. Đây là yếu tố thuần dưỡng. Gà hung dữ tấn công người chạm vào chúng sẽ bị loại và không được sử dụng để lai tạo. Gà nhát bỏ chạy khỏi lồng hoặc người cũng phải bị loại. Chỉ những con thân thiện, hiền lành mới được làm gà giống và đem triển lãm.

2) KIỂU (TYPE)
Kiểu là yếu tố sống còn đối với bất kỳ giống gà nào. Không có kiểu thích hợp, một cá thể sẽ không được chấp nhận là thành viên của giống gà nhất định. Kiểu ám chỉ điểm đặc trưng và tổng quát của giống gà. Ở serama, kiểu cũng ám chỉ tư thế mà gà thể hiện hay hình dáng của nó. Một số serama có tư thế cố định và dường như chúng luôn thể hiện như vậy. Điều này là phi tự nhiên và không được coi đó là điều đặc biệt. Bạn có thể nhận thấy gà với tư thế luôn cố định thì không thể thư giãn và không thể giữ thăng bằng khi ăn uống, sinh sản và đậu chạc. Những con như vậy sẽ không được điểm thưởng. Những con serama thích hợp là những con tự động-tạo dáng – đấy là khi gà tự tạo dáng mà không cần được chỉnh sửa hay tạo dáng bởi chủ nuôi hay trọng tài, nhưng có thể thư giãn với khả năng chuyển động đuôi lên hay xuống. Kiểu và dáng thích hợp của gà serama là thân hình tạo góc 90 độ so với mặt đất. Với hình dáng thích hợp thì sự thăng bằng sẽ không bị ảnh hưởng. Dáng đầu của gà serama cũng rất quan trọng. Dáng đầu thích hợp phải ngả về phía sau càng xa càng tốt, sao cho cạnh sau mồng chạm hay gần chạm vào lông phụng và mắt nằm sau hai chân khi nhìn từ mặt bên. Do đó, ức phải ưỡn ra tối đa. Dáng cổ phải cong sao cho đầu lùi xa tối đa về phía sau, ức ưỡn tối đa về phía trước, nhưng tích không được treo hay nằm trên ức. Để được như vậy, cổ phải có chiều dài thích hợp. Kích thước ngực tức phần ức nhô ra phải có kiểu dáng thích hợp. Ức phải to, nhô ra trước, cao và không được xệ.

THÂN
Điều vô cùng quan trọng đối với gà serama là thân phải đầy đặn và mạnh mẽ, đặc biệt là vùng ức. Gà mảnh mai, ức không chắc, đầy đặn sẽ bị loại. Cơ bắp là dấu hiệu của sức sống. Gà mảnh mai không được dùng làm giống bởi vì kháng bệnh kém và một khi thiếu sức sống thì thường khả năng sinh sản cũng kém.

ĐUÔI
Đuôi phải chắc chắn. Đuôi xơ xác hay nhăn nhúm sẽ bị loại. Đuôi thấp không được khuyến khích. Đuôi cao cực kỳ quan trọng trong việc tạo dáng cho gà và là yếu tố chính thuộc kiểu ở serama.

Lông đuôi – lông đuôi mảnh và rời rạc là không tốt. Gà có ít hơn 5 lông đuôi mỗi bên sẽ bị loại. Gà càng nhiều lông đuôi càng tốt.

Lông phụng – cũng vậy, lông phụng mảnh và rời rạc là không thích hợp. Lông phụng không thẳng hay ít hơn 5 cái mỗi bên cũng không thích hợp, lông phụng càng nhiều càng tốt.

Lông phụng thứ - mảnh, rời rạc hoặc xấu là không thích hợp.

Lông mã - tránh lông mã mảnh, rời rạc hoặc gãy .

CÁNH
Cánh dựng lố đường thẳng đứng là không thích hợp. Cánh gần nằm ngang sẽ bị loại. Cánh không nên kéo lết trên mặt đất đến nỗi bị rách hay xây xước. Cánh phải vừa không chấm đất và gọn gàng. Cánh chạm đất thường bị dơ, trầy xước hay rách.

CHÂN
Chân phải đủ cao để giữ cánh không chạm đất. Chân quá thấp thường là kết quả của gien độc và điều này không phù hợp ở gà serama bởi đó là đặc điểm của gà chabo (gà tre nhật). Chân quá thấp khiến cánh bị xước vì chạm đất. Chân thấp sẽ bị loại. Chân phải có kích thước vừa phải, không được cao. Chân thấp vì cẳng chân quá ngắn sẽ bị loại. Ngoài ra, chân có nhiều hơn bốn ngón cũng bị loại.

LÔNG
Lông mảnh, gãy, mất, xù, chỗ xoăn chỗ không hoặc xơ xác, hay nhấp nhô là không thích hợp. Lông phải mượt, đẹp, và bó vừa phải.

MỒNG/TÍCH
Mồng phải từ nhỏ đến trung bình để trông duyên dáng. Mồng có ít hơn 5 gai sẽ bị loại. Tích không được quá lớn. Tích lòng thòng, mồng quá lớn, mồng đổ và mồng hay tích bị gấp nếp hay lồi lõm là không thích hợp.

ĐIỀU KIỆN (CONDITION)
Điều kiện thể hiện qua chất lượng chăm sóc và chuẩn bị triển lãm. Gà xấu với bộ lông xơ xác, bù xù, bẩn và gãy, mặt nhợt nhạt hay có biểu hiện bệnh lý hoặc vấn đề về thể chất sẽ bị loại.

Cắt tỉa móng trước khi dự thi (tăng điểm điều kiện).

Lai tạo
Serama chưa phải là một “giống gà” thực sự theo cách hiểu thông thường của chúng ta về giống gà. Cần phải mất nhiều năm nữa để tất cả những đặc điểm mà chúng ta mong muốn xuất hiện ở serama. Do đó, gà serama là một thách thức đối với các nhà lai tạo. Người ta không lai tạo gà theo màu sắc mà tập trung chủ yếu vào các đặc điểm chính bao gồm kiểu và dáng. Những màu lông phổ biến gồm điều, chuối lửa, khét da bò (buff), vàng (wheaten) và bông. Màu cẳng chân cũng như màu mắt và tai cũng không phải là yếu tố quan trọng. Do đó, mọi nỗ lực tập trung vào các đặc điểm chính và khả năng sinh sản. Ở Malaysia, gà serama được phân làm 3 loại: A, B và C; đây là những lớp đại diện cho trọng lượng của gà.

Ở Malaysia, mặc dù khuynh hướng lai tạo chủ yếu tập trung vào việc tạo ra những con gà nhỏ nhất, tất cả các lớp đều được đánh giá và thưởng lãm theo cùng một phương thức. Một số màu phổ biến hơn những màu khác nhưng không màu nào điểm thấp vì bị đánh giá kém hơn. Lẽ đương nhiên, tiêu chuẩn lai tạo ở Malaysia là một phần của Tiêu Chuẩn Serama Thế Giới (World Serama Standard).

Tính tình và phong cách cũng là một phần của gà serama. Gà phải thân thiện và dạn dĩ. Gà nhát, bay hay dữ không thích hợp. Khả năng sinh sản là đặc điểm rất quan trọng ở giống gà non trẻ này, cũng như những giống gà tre khác. Các lớp B và C lai tạo rất tốt. Lớp A bé xíu là gien lặn và có thể được lai từ cha mẹ B và C.

Trong khi gà trống lớp A hoàn toàn thích hợp để lai tạo thì gà mái thường kém hơn. Đây là hiện tượng thường xảy ra ở những giống gà tre tí hon khác cũng như chó và ngựa tí hon. Tự nhiên có những giới hạn của nó.